Nhiều người hiện nay vẫn quan niệm rằng việc chọn một địa điểm đất tốt để xây mộ cho người thân sẽ mang lại may mắn và bình an cho gia tộc của mình. Tuy nhiên, không phải ai cũng tin vào quan niệm này. Trong thực tế, việc tìm kiếm,xây dựng một ngôi mộ đáp ứng tiêu chí huyệt đạo tốt theo góc nhìn phong thủy chính tông đòi hỏi rất nhiều công sức và tiền bạc.
Tuy nhiên, quan niệm về “huyệt đạo phong thủy” lại có một phần huyền bí và gây tranh cãi. Theo quan niệm này, chọn được một địa điểm huyệt đạo tốt sẽ mang lại tài lộc, sức khỏe và may mắn cho gia đình. Ngược lại, nếu xây mộ trên một nơi đất xấu hoặc huyệt đạo không tốt, sẽ gây ra những tai ương và xui xẻo cho gia đình.
Thực tế, nhiều người đã trở nên lừa dối và mất tiền bạc vì những lời hứa hẹn về “huyệt đạo phong thủy” của những người tự xưng là chuyên gia phong thủy,thầy phong thủy.
Vì vậy, trước khi quyết định xây mộ hoặc tìm kiếm sự tư vấn phong thủy, chúng ta cần phải cân nhắc kỹ và tìm hiểu thông tin đầy đủ về các chuyên gia phong thủy và địa điểm đất để tránh bị lừa đảo và mất mát tiền bạc.
Triều đại phong kiến phương Đông xưa từng trải qua sự lên ngôi, hưng thịnh và rồi đến cả diệt vong, nhưng có một điều không thể tránh khỏi là sự hư ảo và mơ hồ xung quanh các mồ mả của những vị vua, hoàng đế. Tuy nhiên, không thể khẳng định rằng điều đó là hoàn toàn đúng, nhưng chắc chắn có một tay người can thiệp vào việc này để chuẩn bị cho sự thành lập hoặc củng cố sự vững chắc và bền vững của một triều đại.
Có một mối quan hệ không thể thiếu giữa vương quyền và thần quyền. Những câu chuyện huyền thoại kể về các vị thần và thần linh cũng chỉ đóng vai trò như một công cụ hỗ trợ cho vương quyền. Những thần linh này được sử dụng để đánh bóng hình ảnh của các vị vua, giúp họ củng cố thêm quyền lực và uy tín trong mắt người dân.
Trước tiên xin kể một chuyện có thật được sử sách ghi lại. Đó là sự kiện về vị quan “khai quốc công thần” triều Gia Long là Nguyễn Văn Thành bị xử tội chết. Ông là người có công lớn giúp nhà Nguyễn dựng cơ đồ rồi trở thành “thông gia” với vua Gia Long. Nhưng một tai họa kinh hoàng ập đến.
Nguyễn Văn Thuyên con trai ông cũng là con rể Gia Long văn hay chữ tốt từng đỗ hương cống có làm bài thơ tặng bạn. Hai câu cuối nói về ý con người cùng đất nước sơn hà gặp phen hội ngộ sẽ là dịp giúp nhau xoay chuyển thời thế này. Ý thơ đầy khẩu khí của kẻ đội trời đạp đất. Thế nhưng liền bị triều đình khép vào tội “có ý phản tặc”. Cả hai cha con Văn Thành bị chết oan! Chết vì một vài câu thơ thì xưa vẫn có nhưng ở đây sâu xa còn một lý do khác…
Sau khi lên làm vua, Gia Long sai quần thần rồi tự mình đi tìm “huyệt đạo đế vương” để cho con cháu sau này bền vững nối ngôi. Lần ấy Gia Long tìm được mảnh đất phong thủy rất đẹp, bèn gieo quẻ rồi cho đào sâu xuống thì bắt gặp thấp thoáng 5 sắc óng ánh. Theo kinh nghiệm đất nào có “ngũ sắc” thuộc hàng “đại quý”. Vua mừng lắm.
Trong lúc Vua vui như vậy, cũng là số trời mà Văn Thành thốt lên, có lẽ cũng là để chia sẻ với người từng kề vai vào sinh ra tử, là thần cũng đã tìm được nơi đất tốt như thế để táng gửi hài cốt thân mẫu… Chỉ một lời nói ấy đã hại cả gia tộc Văn Thành.
Vốn đa nghi, tàn nhẫn và độc ác, Gia Long nghĩ ngay đến chuyện thế là Văn Thành có ý làm vua nên mới tìm “huyệt đạo”… Thì ra cái cớ là câu thơ kia để Văn Thành chết chỉ là bề ngoài!
Không chỉ Gia Long mà các vua triều Nguyễn sau này đều rất tin phong thủy huyệt mộ nên đều sai người rồi tự mình đi chọn. Vua Minh Mạng phải mất 14 năm mới tìm được chỗ ưng ý. Điều ấy đã thành truyền thống…
Ngược trở về lịch sử tiên tổ nhà Nguyễn, tương truyền, Nguyễn Kim chết, thi hài được đưa về táng ở núi Triệu Tường (Hà Trung – Thanh Hóa). Khi đặt quan tài xuống huyệt thì trời nổi cơn sấm sét, mưa gió ầm ầm, miệng huyệt cứ từ từ khép lại. Mọi người kinh hãi bỏ chạy. Khi trời quang mây tạnh, thì nơi đặt quan tài cũ đã thành cả một triền núi đá trùng điệp, cây tốt cỏ tươi… Từ đó núi có tên mới là Thiên Tôn.
Cho nên sau này mỗi dịp tế bái Triệu tổ, các vua nhà Nguyễn chỉ làm lễ bái vọng (“vọng” có nghĩa nhìn xa), đứng dưới chân núi mà bái “vọng” lên. Huyền thoại đã đi vào rồi hằn đậm trong tâm trí mỗi vua nhà Nguyễn sau này để rồi trở thành một tập quán, một nguyên tắc.
Dưới góc nhìn phong thủy hiện đại thì quần thể di tích vua Gia Long là đẹp nhất trong số các Lăng triều Nguyễn. Đây là một kiến trúc phong thủy điển hình: có tả Thanh Long, có hữu Bạch Hổ, có minh đường là một hồ nước lớn. Lại có cả một ngọn núi nhỏ làm án triều…
Thế là chỉ một sở thích, một ý chỉ của vương quyền mà có thể làm tổn hại bao sinh linh. Mặc dù những sinh linh đó vô tội, thậm chí người bị kết tội chết từng là cánh tay phải của bậc đế vương!
Huyền thoại về phong thủy cho rằng Thanh Hóa là đất “phát vương”, trong đó gia thế chúa Trịnh truyền được tới 12 đời là nhờ “phúc” từ cụ Hưng tổ Phúc ấm vương Trịnh Liễu (Sóc Sơn – Vĩnh Lộc ngày nay). Cụ Liễu làm ruộng, hiền hậu, phúc đức được một vị thần chỉ nơi đất phát vương nghiệp (núi Hùng Lĩnh, huyện Vĩnh Lộc). Nghe lời ông đem hài cốt cha táng ở đấy.
Vị thần chỉ tiếp núi Lệ Sơn và vùng Mã Thắm nói đất này “quý địa” phát tài tới cả trăm năm… Tính theo gia phả thì Trịnh Kiểm là cháu bốn đời cụ Trịnh Liễu. Đúng như lời thần nhân, vương nghiệp họ Trịnh phát lên từ huyệt địa núi Hùng Lĩnh. Về sau nhà chúa Trịnh phong vị thần mách cụ Trịnh Liễu làm Tống Thiên Thần vương…
Vẫn theo huyền thoại có nhà sư giỏi địa lý mách cụ Lê Khoáng (thân phụ Lê Lợi) vùng đất thiêng có long mạch hình “quốc ấn” (dấu hiệu cao nhất của vương quyền) có “tả Thanh Long” là núi Thái Thất và núi Chí Linh (huyện Lang Chánh nay) “hữu Bạch Hổ” là dòng nước uốn, “minh đường” là xứ Long Sơn rộng rãi… Cụ Lê Khoáng đem táng hài cốt cha mình vào huyệt đạo như chỉ dẫn. Về sau Lê Lợi được nhờ cái “phúc” ấy!
Theo dã sử thì huyền thoại lưu truyền trước cả thời điểm Lê Lợi kháng chiến, như là một sự “chuẩn bị” cho Lê Lợi lên ngôi Thái tổ mở ra một thời đại thịnh trị. Trong thời kháng chiến lại có thêm rất nhiều huyền thoại mới như là sự tiếp nối, như là sự khẳng định Lê Lợi xứng đáng làm vua. Ví như giai thoại Nguyễn Trãi cho viết chữ bằng “mực mật ong” vào các lá cây 6 chữ: “Lê Lợi vi quân, Nguyễn Trãi vi thần”. Kiến cứ thế ăn mật để lộ ra những chữ của Trời “phán”…
Sự chuẩn bị cho nhà Trần nắm quyền thì có hẳn một chùm truyện ly kỳ, nổi bật là “Trần triều tổ mộ ký” (Truyện mộ tổ nhà Trần) được nhiều sách cổ in như “Công dư tiệp ký”, “Đại Nam dư địa chí ước biên”…Vốn xuất thân nghề chài lưới, lại có gốc gác nơi ở cũng rất bình thường (Tức Mặc) mà làm nên nghiệp đế, nhà Trần phải nhờ thần quyền tâm linh “chuẩn bị cơ sở” về tư tưởng. Huyền thoại phải làm nhiệm vụ này.
Truyện kể để trả ơn một người họ Trần cứu mạng, ông thầy địa lý Tàu liền biếu ngôi huyệt phát đế (ở Nhật Cảo, Thái Đường, huyện Hưng Nhân) mà mình công phu tìm được. Đó “huyệt đạo” có thế “Thổ tang phúc tàng kim” (đất giấu vàng) trông ra “minh đường” là ngã ba sông nước mênh mang, cờ gươm hai bên tả hữu, phía sau tựa vào hình voi phục. Quả nhiên Trần Cảnh chỉ từ chỗ làm chức “Hỏa đầu” (chức quan sai bảo) trong cung Lý Chiêu Hoàng mà được làm chồng Công chúa rồi được nhường ngôi.
Lý giải sự “phế” (xuống dốc) của thời mạt Trần, huyền thoại phong thủy cũng can dự rất đậm. Chả là con cháu thầy địa lý Tàu kia thấy không được nhà Trần kính trọng như trước, nhớ lời cụ Tổ dặn mở “sấm thư” rồi gửi sang Đại Việt. Nhà Trần ngây thơ làm theo: “Huyệt mộ Thái Đường hết thịnh, cần khơi thông thuỷ đạo” cho đào mở một đường thủy đạo (dòng sông). Không ngờ đó là kế hiểm của thầy địa lý để lại, đường thuỷ đạo làm đứt long mạch. Nhà Trần dần dần suy tàn…
Ngược thời gian về với triều Lý vẻ vang tồn tại hơn 2 thế kỷ (215 năm, từ 1009 – 1225). Bản “Thiên đô chiếu” (1010) của Lý Thái tổ thực sự là áng văn bất hủ cũng nhắc tới hình thế phong thủy tiêu biểu của đất Thăng Long. Sự chuẩn bị cho một người có gốc ở đất Cổ Pháp (Bắc Ninh), xuất thân bình dân mà lên ngôi Hoàng đế cũng rất cần thần quyền “giúp đỡ”.
Truyện kể thân phụ Ngài nghèo khó, đi làm thuê ở chùa Tiêu Sơn rồi phải lòng một tiểu nữ. Nhà chùa bèn đuổi họ đi. Hai vợ chồng dìu dắt nhau đến nơi rừng Báng, ngồi nghỉ dưới gốc cây. Người chồng xuống giếng uống nước, chẳng may sảy chân chết đuối. Người vợ bụng mang dạ chửa đi tìm thì thấy giếng đã tự lấp quá nửa… Nàng đành vào chùa Ứng Tâm gần đó xin tá túc…
Theo phong thủy xưa, huyệt mộ không lấp mà tự đầy, tức được “thiên tạo”, con cháu không phát vương thì cũng được danh vọng quý. Điều này đã “ứng” với dòng dõi họ Nguyễn (Nguyễn Kim) và trước đó là thân phụ Lý Thái Tổ. Trường hợp này còn gọi “mộ kết”, nếu đào lên thấy đất ở đó óng ánh “ngũ sắc” thì phải “hoàn nguyên” ngay. Nếu cứ đào sẽ bị “đứt” long mạch… Hoặc ngôi mộ nào được mối/kiến đùn lên hoặc tự cao lên… cũng có thể được coi là “thiên tạo”. Dần dần tín ngưỡng ấy trở thành phong tục “Sống vì mồ vì mả/ Ai sống bằng cả bát cơm”. Hằng năm đi chạp mộ cũng là cách “tôn tạo” mồ mả cha ông cao ráo sạch sẽ. Hạt nhân của phong tục này là khát vọng nhân bản con người muốn vươn lên tới đỉnh cao của danh vọng, giàu có, vương giả.